Phát triển rừng trồng và giá trị xanh kép kinh tế – môi trường

Tháng Mười năm 2025, khi những cơn mưa mùa thu vẫn còn rơi rải rác trên dãy Trường Sơn, từng mảng rừng trồng mới đã bắt đầu xanh lên ở các vùng trung du và miền núi phía Bắc. Từ Yên Bái, Tuyên Quang cho đến Quảng Trị, người dân vẫn kiên trì trồng rừng, chăm sóc từng gốc keo, lát và bạch đàn. Ở đó, cây rừng không chỉ là tài sản kinh tế mà còn là tấm khiên bảo vệ đất, nước và sinh kế của hàng triệu người. Lâm nghiệp Việt Nam trong tháng 10/2025 tiếp tục cho thấy sức sống mạnh mẽ – một ngành kinh tế xanh đúng nghĩa, nơi giá trị môi trường và giá trị kinh tế cùng phát triển song hành.

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích rừng trồng mới tập trung trong tháng 10 đạt khoảng 31,8 nghìn héc-ta, giảm nhẹ 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, tính chung 10 tháng đầu năm, diện tích rừng trồng mới đạt 253,1 nghìn héc-ta, tăng 8,8% so với cùng kỳ. Sản lượng gỗ khai thác đạt 2,432 triệu mét khối trong tháng 10 và hơn 20,465 triệu mét khối trong 10 tháng, tăng 7,8% so với năm 2024. Diện tích rừng bị thiệt hại chỉ còn 41,6 héc-ta trong tháng và 1.040 héc-ta trong 10 tháng, giảm tới 30,9%. Những con số này không chỉ cho thấy nỗ lực mở rộng rừng trồng mà còn thể hiện sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển lâm nghiệp: từ khai thác đơn thuần sang quản lý bền vững, gắn với mục tiêu giảm phát thải và phục hồi sinh thái.

screenshot_1764562212

Giá trị của rừng ngày nay không còn được đo bằng sản lượng gỗ khai thác đơn thuần. Mỗi héc-ta rừng trồng có thể hấp thụ trung bình từ 7 đến 10 tấn CO₂ mỗi năm, tương đương 40–50 triệu tấn CO₂ được lưu giữ trong toàn bộ diện tích rừng trồng mới năm 2025. Theo nghiên cứu của FAO và Tổ chức REDD+, việc mở rộng diện tích rừng và giảm thiểu mất rừng là một trong những giải pháp hiệu quả nhất để thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam vào năm 2050. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tham gia thị trường tín chỉ carbon, nơi mỗi tấn CO₂ được hấp thụ có thể mang lại giá trị kinh tế từ 5 đến 10 USD. Như vậy, chỉ riêng lượng hấp thụ của rừng trồng mới năm 2025 có thể mang lại tiềm năng giá trị hàng trăm triệu USD nếu được định giá đúng trên thị trường carbon tự nguyện quốc tế.

Ở nhiều địa phương miền núi, phát triển rừng không chỉ là nhiệm vụ môi trường mà còn là sinh kế trực tiếp. Hàng trăm nghìn hộ dân tại Bắc Kạn, Quảng Bình, Gia Lai đang sống dựa vào rừng trồng sản xuất và rừng phòng hộ kết hợp. Một héc-ta keo tai tượng sau 6 năm có thể cho thu nhập trung bình 90–120 triệu đồng, cao hơn nhiều so với trồng sắn hay ngô trên cùng diện tích. Ngoài nguồn thu từ gỗ, nhiều hộ dân còn tận dụng mô hình trồng xen dược liệu dưới tán rừng như ba kích, sa nhân, sâm bố chính, tạo sinh kế kép, vừa bảo vệ đất, vừa gia tăng giá trị kinh tế. Theo ước tính của Viện Khoa học Lâm nghiệp, 1 héc-ta rừng trồng kết hợp dược liệu có thể giúp người dân tăng thu nhập gấp đôi so với rừng đơn loài truyền thống. Đây là hướng đi thực tế giúp người dân gắn bó lâu dài với rừng thay vì chặt bỏ sớm để lấy gỗ non.

Tuy nhiên, bức tranh lâm nghiệp vẫn còn những mảng tối. Nhiều khu rừng ở miền Trung và Tây Nguyên chịu áp lực lớn từ chuyển đổi mục đích sử dụng đất, khai thác trái phép và cháy rừng mùa khô. Mặc dù diện tích rừng bị thiệt hại đã giảm mạnh, nhưng nguy cơ mất rừng thứ sinh vẫn hiện hữu khi nhu cầu đất cho phát triển hạ tầng, năng lượng và khai khoáng ngày càng tăng. Ở góc độ môi trường, mất đi mỗi héc-ta rừng đồng nghĩa với mất đi khả năng hấp thụ hơn 7 tấn CO₂ và khoảng 15 tấn oxy tái sinh cho khí quyển, chưa kể tới sự suy giảm đa dạng sinh học và nguồn nước đầu nguồn. Tác động đó lan tỏa đến cả đời sống con người, từ nạn sạt lở đất ở vùng cao cho đến lũ lụt bất thường ở đồng bằng.

kiem-lam

Cán bộ kiểm lâm thực hiện công tác kiểm tra, quản lý, bảo vệ rừng tại địa phương

Một điểm đáng chú ý trong tháng 10 là sự gia tăng các dự án rừng đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC. Tính đến nay, cả nước có hơn 370 nghìn héc-ta rừng được cấp chứng chỉ, chủ yếu ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Bình Định. Các doanh nghiệp chế biến gỗ đạt chứng chỉ này có thể xuất khẩu sang các thị trường khó tính như châu Âu và Bắc Mỹ, nơi yêu cầu gỗ hợp pháp và minh bạch nguồn gốc. Đây không chỉ là lợi thế thương mại mà còn là cam kết rõ ràng của Việt Nam trong phát triển chuỗi cung ứng xanh, góp phần nâng tầm giá trị xuất khẩu lâm sản, vốn đạt gần 15 tỷ USD trong 10 tháng năm 2025.

Ở cấp độ cộng đồng, các dự án trồng rừng gắn với chương trình chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) đã trở thành động lực kinh tế quan trọng. Tính đến tháng 10, tổng số tiền chi trả cho người dân tham gia bảo vệ rừng đạt hơn 3.000 tỷ đồng, giúp hàng trăm nghìn hộ dân miền núi có nguồn thu ổn định. Đây là minh chứng cho một cơ chế kinh tế – môi trường hiệu quả, khi người dân không chỉ được hưởng lợi từ gỗ, mà còn từ chính giá trị sinh thái mà họ gìn giữ.

anh1

Dự án trồng rừng không chỉ hướng đến phát triển xanh bền vững mà còn giúp tăng thu nhập, tạo sinh kế cho người dân tại địa phương

Sự phát triển của lâm nghiệp trong năm 2025 vì thế không chỉ nằm ở những con số diện tích hay sản lượng, mà ở sự chuyển dịch căn bản trong nhận thức: rừng là vốn tự nhiên, là công cụ giảm phát thải, là sinh kế và là lá chắn sinh thái cho quốc gia. Từ vùng đồi trung du xanh mướt ở Phú Thọ đến rừng trồng gỗ lớn ở Bình Định hay những cánh rừng phòng hộ ven biển Cà Mau, tất cả đang cùng kể một câu chuyện chung về sự hồi sinh của rừng Việt Nam trong kỷ nguyên tăng trưởng xanh.

Trong tương lai gần, khi Việt Nam bước vào giai đoạn thực thi các cam kết về khí hậu, ngành lâm nghiệp sẽ tiếp tục giữ vai trò trọng yếu. Mỗi hạt giống rừng được gieo xuống hôm nay không chỉ là nguồn thu cho người trồng, mà còn là khoản đầu tư dài hạn cho khí hậu, cho môi trường sống và cho thế hệ mai sau. Bởi rừng, suy cho cùng, không chỉ là tài nguyên, mà là không gian sinh tồn của con người nơi thiên nhiên và kinh tế tìm được điểm cân bằng bền vững.